“Việt Nam quê hương ta đẹp lắm

Mặc lửa khói giày xéo tháng năm

Người Việt Nam da nâu mắt đen

Thảo thơm bất khuất như cành sen

Việt Nam ơi, quê hương ta ơi” 

Những câu ca trong bài Một vòng Việt Nam được ca sĩ Tùng Dương trình bày ngân nga, vang vọng tới mọi miền tổ quốc. Ngợi ca về đất nước Việt Nam, với tinh thần bất khuất chống ngoại xâm, mặc bao lửa khói, bom đạn đã giày xéo, đã khắc khoải trong tâm trí con dân chúng ta, được ghi chép lại bởi những trang sử vàng của dân tộc. 

Trần Bình Trọng đã từng hét lớn với giai thoại vang danh truyền đời : “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” thể hiện rõ nét tinh thần dù là máu đổ, đầu rơi, mãi sắc son lòng tin bất diệt “Độc lập- Tự do- Hạnh phúc”.

Tuy 6 chữ ngắn ngủi mà chứa đựng giấc mơ hòa bình của cả một đất nước, phải trải qua trăm ngàn cuộc kháng chiến, sinh ly tử biệt, để giành lại tự do vốn có của dân tộc. Từ thời xưa, ông bà ta đã lưu danh với tinh thần anh dũng, không chịu khuất phục trước số phận nghiệt ngã, trêu ngươi.

 Điển hình cho tinh thần ấy là Bà Triệu với câu nói được đưa vào sách giáo khoa mà chúng ta, ai ai cũng đã từng học qua: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, chứ tôi không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người” câu nói này là lời khẳng định mạnh mẽ về ý chí tự chủ, khí phách hiên ngang và tinh thần bất khuất. 

Không phải vì thân nữ nhi “liễu yếu đào tơ”, mà thay vào đó là một tinh thần quật khởi, đấu tranh vì tự do. Dám đứng lên kêu gọi, lãnh đạo nhân dân chiến đấu chống lại ách đô hộ, xứng với câu “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”, tạo nên tiếng vang lưu truyền mãi về sau.

Qua đó thấy rõ người dân ta không chấp nhận một cuộc sống lệ thuộc, khom lưng, quỳ gối phục tùng kẻ khác, dù đó là những thế lực quyền quý. Thay vào đó, họ khao khát một cuộc đời tự do, dám đương đầu với khó khăn, tự mình chinh phục những thử thách lớn lao. 

Khi nhớ về tuổi thơ, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều có những ký ức đẹp gắn liền với những truyện cổ tích Việt Nam và nhiều bài học hay như Sọ dừa, Cây tre trăm đốt, Thạch sanh lý thông,…trong đó không thể thiếu chính là hình ảnh Thánh Gióng cùng cây tre đã hóa thành một trong “tứ bất tử” sống mãi trong tâm thức của mỗi người dân Việt Nam. 

Thấm đượm bản sắc và văn hóa người Việt, cách mà Việt Nam ngoại giao cũng giống như hình ảnh lũy tre làng đương đầu với bão tố. Ngoại giao là cách thể hiện sự khôn ngoan, chiến lược đối ngoại tài tình trong việc đàm phán với các nước khác về chính trị – an ninh, kinh tế – xã hội, thể hiện rõ nét tinh thần, ý chí,văn hóa của một dân tộc, để các nước có thể hiểu sâu hơn về lịch sử, con người và đất nước Việt Nam.

Ngoại giao lấy cái gốc là văn hóa dân tộc và mang trong mình nội hàm văn hóa dân tộc. Bản sắc của ngoại giao Việt Nam là một phần của bản sắc dân tộc Việt Nam, được tôi rèn qua thực tiễn khắc nghiệt để gây dựng nên nền văn hiến dài lâu.

Thế giới đang biến động rất nhanh và phức tạp, có những thách thức, rủi ro tiềm ẩn khó dự báo và có cả những cơ hội nảy sinh mà nếu không nhạy bén, nhìn xa trông rộng sẽ dễ dàng bị “xóa sổ”. Thế nên, tâm thức nhất định luôn nhớ đến lý do của khát vọng cao cả “Độc lập, Tự do” được hun đúc trong suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. 

Khát vọng ấy đã được khắc ghi trong những bản áng thiên cổ hùng văn, từ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt đến “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi và được tỏa sáng trong “Bản Tuyên ngôn Độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 

Vậy nên, thế hệ mai sau nhất định nhớ lấy, khắc cốt ghi tâm những câu nói khẳng định chủ quyền, đậm đà bản sắc dân tộc. Những câu nói này không chỉ là tuyên ngôn mà còn chứa đựng tinh thần, giá trị văn hóa, kinh nghiệm sống và trí tuệ của cha ông ta qua bao thế hệ, là cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, góp phần xây dựng một xã hội văn minh và giàu bản sắc.

“Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.”

(trích từ Trong tác phẩm nổi tiếng “Lịch sử nước ta” của Nguyễn Ái Quốc năm 1941)

“Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”

(trích lời Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn các cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 308)

“Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”

(trích từ “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được phát đi vào ngày 19 tháng 12 năm 1946)

“Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”

(trích từ bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho các em học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vào tháng 9 năm 1945.)

Và tất yếu nhất là “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Đây là những câu nói mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại, luôn khắc sâu trong tiềm thức con dân Việt Nam, gắn liền với hình ảnh lá cờ Tổ Quốc tung bay phấp phới giữa bầu trời, sau những cuộc kháng chiến giành lại Độc lập dân tộc mà đánh đổi biết bao nỗi buồn đẫm máu, đẫm nước mắt. 

Là công lao của biết bao thử thách chông gai, trong sự nghiệp kháng chiến cứu nước và giữ nước mà các anh hùng, chiến sĩ đã cùng nhau tô vẽ nên hình hài mảnh đất rồng thiêng, cong cong uốn lượn hình chữ S. 

“Để cho đất nước yên vui từ đó

Để cho đỏ thắm màu cờ tự do

Để những tiếng cười vang khắp nơi từ ngày chiến thắng

Nhìn quê hương sáng tươi trong bình minh

Nhìn ánh nắng chiếu rực rỡ quốc kỳ tung bay phấp phới!”

(Trích lời bài hát Viết tiếp câu chuyện hòa bình được trình bày bởi ca sĩ Nguyễn Duyên Quỳnh)

Nửa thế kỷ “từ Bắc vô Nam nối liền nắm tay” đã đi qua, nhưng khát vọng hòa bình, thống nhất vẫn luôn là ngọn lửa rực cháy trong tim mỗi người con đất Việt. Như lời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nói, trong bài phát biểu lịch sử: “Chúng ta là người Việt Nam. Đất nước này là đất nước Việt Nam. Thống nhất và độc lập là những điều chúng ta mơ ước từ mấy chục năm nay.”

 Đó không chỉ là khát vọng của một thế hệ, mà còn là di sản tinh thần mà mỗi người Việt Nam hôm nay cần ghi nhớ: “Tự do, hòa bình, không phải dễ. Có được bây giờ, cố gắng mà giữ”(trích từ lời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn).

Ngợi ca về đất nước Việt Nam, với tinh thần bất khuất chống ngoại xâm, mặc bao lửa khói, bom đạn đã giày xéo, đã khắc khoải trong tâm trí con dân chúng ta, được ghi chép lại bởi những trang sử vàng của dân tộc.

Hòa chung không khí đèn hoa rực rỡ, thời khắc chiến thắng vang danh, lòng người dân Việt Nam lại trào dâng niềm tự hào, hân hoan kỷ niệm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Khắp các nẻo đường, từ thành thị đến nông thôn, rực rỡ cờ hoa, băng rôn, khẩu hiệu, như một lời khẳng định về một trang sử vàng chói lọi của dân tộc.

 Hình ảnh Bác đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập mãi là hình ảnh đẹp nhất, đáng nhớ trong lòng chúng ta.

 Như lời kể của Cụ Lương Chính Thắng – cán bộ lão thành cách mạng vừa kể vừa hô vang câu khẩu hiệu, đôi tay run run giơ cao như sống lại thời khắc thiêng liêng của dân tộc: “Khi Bác đọc xong bản Tuyên ngôn Độc lập, dòng người ở dưới đồng thanh hô vang Hồ Chí Minh muôn năm, muôn năm, muôn năm! Nguyễn Ái Quốc muôn năm, muôn năm, muôn năm! Việt Nam độc lập muôn năm, muôn năm, muôn năm!… Cảm giác khi đó cả triệu người dân đều đồng lòng, đoàn kết dựng xây đất nước Việt Nam độc lập”.

Chiến thắng lịch sử Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 là một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Với chiến thắng này, đất nước ta từ hai miền Nam Bắc đã chính thức được thống nhất, mở ra một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên hòa bình, độc lập và phát triển. 

Khoảnh khắc cả đất nước vỡ òa niềm hân hoan, khi nghe loa phát thanh do Nghệ sĩ ưu tú Phan Thị Kim Cúc cất giọng “Mời các bạn nghe tin chiến thắng chúng tôi mới nhận được. Đúng 11 giờ 30 phút, quân ta tiến vào Sài Gòn, đánh chiếm Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu Ngụy, Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện. Cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên nóc Dinh Độc Lập. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng”.

Cả đất nước như sục sôi khi nghe tin, vui buồn lẫn lộn đan xen, niềm vui đại thắng lấn át nhưng vẫn man mác niềm tiếc thương cho những dấu chân chiến đấu anh dũng vì Tổ Quốc, tô vẽ nên trang sử vàng dân tộc càng thêm rực rỡ. 

Máu đào và sự hy sinh của các anh hùng liệt sĩ đã tô thắm lá cờ cách mạng vẻ vang của Đảng, để đất nước ta nở hoa độc lập, kết trái tự do; như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã khẳng định: “Họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi. Vật chất họ mất, nhưng tinh thần họ sẽ luôn luôn còn với non sông Việt Nam”.

Đảng, Nhà nước và nhân dân ta mãi mãi ghi công và đời đời biết ơn sự hy sinh, cống hiến to lớn của các anh hùng liệt sĩ. Các thế hệ người Việt Nam luôn tự hào và nguyện sống xứng đáng với sự hy sinh cao cả của các thế hệ đi trước.

Tuyết Như

Loading

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *